Quê gốc ở xã Cự Khê – huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), sinh trưởng ở Hà Nội, cha dạy tiểu học, mẹ bán cá ở chợ Đồng Xuân, tự bản thân nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc không bao giờ giấu diếm hay mặc cảm về xuất thân bình dân ấy. Từ nhỏ cho đến khi bước chân vào cánh cổng trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, con đường học vấn của ông khá suôn sẻ. Theo học dự bị Cao đẳng được một thời gian, ông bị đuổi học vì chống lại thầy giáo người Pháp đã xúc phạm dân An Nam. Sự việc này hẳn đem lại cho chàng thanh niên không ít nỗi buồn, bởi niềm đam mê nghệ thuật đã ngấm vào máu thịt, cả một khao khát rộng mở trước tương lai. Nhưng với vốn tiếng Pháp và tinh thần tự học, ông đã vượt qua được những rào cản bằng cấp. Tinh thần học tiếng Pháp của ông cũng đầy lý tưởng: Học để hiểu họ, để “có thể đối đáp với họ” bằng lòng tự tôn dân tộc.
Ở tuổi 20, Nguyễn Đình Phúc bước vào âm nhạc. Ông theo học violon thầy Phạm Đăng Hinh, theo học piano với nhạc sĩ người Nga lưu vong Sibirev. Ông cũng áp dụng vốn tiếng Pháp để tự học về nhạc lý phương Tây. Và khi mới chỉ “mổ cò” trên các phím piano, ông đã sáng tác “Lệ thu” theo phong cách âm nhạc cổ điển Phương Tây, viết cả phần đệm piano.
Nhớ lại ca khúc đầu tay này, ông tự trào: "Chẳng học ai, lại sáng tác phứa phựa đi, không như người khác, khiêm tốn một chút, chỉ viết giai điệu và lời ca, anh ta còn cả gan viết phần đệm dương cầm cho bài hát nữa. Chàng trai có biết chút kỹ thuật cơ bản gì về loại đàn này đâu? Chẳng qua anh ta đọc vài trang sách, nghiên cứu một số bản nhạc quốc tế viết cho dương cầm và nhất là xem người ta chơi loại đàn này … thế thôi" (trích hồi ký “Chuyện mình, chuyện đời”).
Sau Lệ thu, Nguyễn Đình Phúc có Lời du tử, Cô lái đò… là những ca khúc đầu tiên được nhạc sĩ sáng tác từ những năm 40 của thế kỷ trước, in đậm dấu ấn của một tâm hồn tài tử, lãng mạn, yêu quê hương đất nước, yêu con người, luyến thương vẻ đẹp trần thế.
Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, kháng chiến chống Pháp, rồi kháng chiến chống Mỹ… Bao nhiêu sự kiện lớn lao của dân tộc trong thế kỷ 20, nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc đều có mặt, đồng hành với tư cách công dân, tư cách nghệ sỹ, viết ca khúc động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân, làm nhạc cho phim, soạn giao hưởng, vẽ tranh, nghiên cứu âm nhạc, làm thơ, viết văn, viết hồi ký, tham gia quản lý – đào tạo nghệ thuật… Nghĩa là làm tất cả những việc mà ông nhận thấy có ích cho cách mạng, cho kháng chiến, có ích cho nghệ thuật và cho cuộc đời. Nhạc sĩ hồn hậu chia sẻ về quan niệm nghệ thuật của mình: “Văn học nghệ thuật là một cuộc chơi. Nói vui vậy thôi. Nghề chơi cũng lắm công phu. Chơi nhưng phải có ích cho cuộc đời. Nếu không có ích cho cuộc đời thì tôi không làm”. Vì một từ “có ích” mà ông đã cặm cụi làm việc tận phút cuối cùng của cuộc đời.
Nhận mình là kẻ du tử, nhưng trong thực tế, nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc luôn chịu học, tự học không ngừng, học trong vốn dân tộc phương Đông, học từ kiến thức phương Tây. Gia cảnh nghèo khó càng nhen lên khao khát buổi đầu đời, mong muốn được đi khắp nơi để đoàn hết đồng bào trong thế giới đại đồng. Và khi lý tưởng cá nhân gặp gỡ lý tưởng cách mạng, ông hăm hở dấn thân vào thời cuộc, đi hát lấy tiền quyên góp cho cách mạng, tham gia khởi nghĩa ở Đà Lạt, lên chiến khu Việt Bắc, về giải phóng Thủ đô, sang làm chuyên gia ở Lào, Campuchia, sang Bulgaria học âm nhạc, tham gia quản lý, đào tạo… Dường như, ở không gian nào, thời gian nào cũng hiện hữu một Nguyễn Đình Phúc nhiệt thành, đầy nhập thế. Dường như, tâm hồn ông luôn rộng mở để đón nhận tất cả rung động, trải nghiệm mà cuộc đời đưa lại, tự tìm cho mình những bước đi hài hòa với xu hướng thời đại mà vẫn giữ được cốt cách - tự do tinh thần, với những không gian riêng để sáng tạo.
Ra đời năm 1947, Bình ca cho thấy một tầm vóc âm nhạc, một chí khí, một tinh thần dân tộc hào sảng, đằng sau đó là lòng nao nức của người nghệ sỹ dùng âm nhạc phụng sự Tổ quốc mình, nhân dân mình. Có thể coi đây là một khúc nhạc kịch, một trường ca đầu tiên của âm nhạc hiện đại Việt Nam. Âm hưởng của “Bình ca” được tiếp nối đầy hân hoan, làm thành “Chiến sỹ sông Lô”, “Hữu ngạn sông Thao”… thời kháng chiến chống Pháp, “Nhớ anh giải phóng quân”, “Cùng nhau đi đầu quân”, “Bô lão chúng ta còn dẻo dai”… thời kháng chiến chống Mỹ. Từ đó, đến “Nhớ quê hương”, và đặc biệt, với “Tiếng đàn bầu” (phổ thơ Lữ Giang) là sự hợp thành của bao cung bậc cảm xúc, da diết, đau đáu niềm yêu con người, yêu tâm hồn dân tộc, “Cung thanh là tiếng mẹ/ Cung trầm là giọng cha”...
Ca khúc Tiếng đàn bầu cũng đã làm nên thành công của ca sỹ Trọng Tấn - giải nhất liên hoan tiếng hát truyền hình Toàn quốc năm 1999. Trong đêm nhạc “Tiếng đàn bầu” diễn ra tại khán phòng Nhà hát lớn Hà Nội, ca sỹ Trọng Tấn đã thốt lên những lời tri ân nhạc sỹ, trước khi, một lần nữa, cất lên“Tiếng đàn bầu”: “Với người nghệ sỹ, đặc biệt là ca sỹ thì chỉ mong được gắn tên mình với một, hai tác phẩm nào đó. Với Trọng Tấn, cái duyên đã đến với Tiếng đàn bầu. Và phải nói rằng Tấn luôn khắc ghi ở trong tim, luôn biết ơn nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc”.
Một trong những chi tiết gây bất ngờ và thú vị cho giới nghiên cứu âm nhạc, là ngay từ năm 1938, nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc đã thực hiện cuộc điền dã đầu tiên ở các làng quan họ, sưu tầm giai thoại và các câu chuyện kể, ghi chép tỉ mỉ lời ca, nghiên cứu các làn điệu, các nghi thức sinh hoạt quan họ truyền thống. Ông cũng là người đầu tiên dùng hệ thống ký âm 5 dòng kẻ để hiển thị giai điệu dân ca, phân tích âm điệu cổ truyền Việt Nam bằng phương pháp nghiên cứu của phương Tây. Công trình “Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu quan họ” được ông thực hiện trong 13 năm (từ 1949 đến 1962) đã được Hội nhạc sỹ Việt Nam tặng giải thưởng (năm 1966 – 1967). Trong giai đoạn hiện nay, khi quan họ cổ đang bị mai một, thất truyền, thì những tư liệu điền dã của ông thực sự vô giá.