Nghe âm thanh bài tại đây qua giọng đọc PTV Hồng Huệ:
Nhà phê bình, Tiến sỹ văn học Nguyên An tên khai sinh là Nguyễn Quốc Luân, sinh năm 1950. Ông có nhiều năm gắn bó với ngành giáo dục, từng là thầy giáo dạy chuyên văn Thái Bình, chuyên viên Bộ Giáo dục, nguyên Giám đốc NXB Từ điển Bách Khoa. Những chuyên luận, khảo cứu về tác giả tác phẩm của ông cũng gắn bó với văn học nhà trường. Đặc biệt, ông có nhiều đóng góp ở mảng chân dung văn học, cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Chất giọng Nghệ chậm rãi của người thành Vinh nhiều năm sống nơi đất Bắc, lối chuyện trò hòa nhã của người từng trải. Đó là đôi nét hình dung về nhà phê bình văn học – Tiến sỹ Nguyên An, tác giả của nhiều cuốn sách nghiên cứu, khảo luận và chân dung văn học.
Nhà phê bình, Tiến sĩ văn học Nguyên An |
“Lập thân tối hạ thị văn chương”. Câu nói của người xưa có lẽ rất đúng với Nguyên An. Văn chương với ông là đam mê khó rũ bỏ. Song ông thực hiện công việc này một cách lặng lẽ, bền bỉ. Một phần ý thức nghề văn là khó nhọc, phần nữa là sự trân trọng đối với chữ, nên ông thường tránh những lời to tát trong viết lách cũng như khi phát ngôn. Văn chương hiếm khi nuôi nổi người cứ ngày đêm say sưa với nó, đọc hết cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi nhíu mày nhăn trán, ghi ghi chép chép. Huống chi lại còn gia đình lớn gia đình nhỏ, những đứa con chỉ biết ăn và học. Thế nên, ở góc độ này, Nguyên An là người thực tế. Căn nhà vợ chồng ông đang ở rộng rãi khang trang, hai con một gái một trai đều học hành đỗ đạt, có việc làm và gia đình riêng ổn định. Nguyên An không bao giờ ra đường khi râu ria chưa cạo. Luôn chỉn chu gọn gàng, luôn chừng mực trong mọi cuộc giao tiếp, không bao giờ say xỉn, không bao giờ vì cao hứng mà buông lời bất nhã.
Chừng mực và tỉnh táo quá có tốt, nhất lại là người làm văn chương? Xưa nay giới văn nghệ sỹ vẫn được hình dung là lãng mạn, kết giao rộng rãi, đôi khi bất cần và bất cẩn. Nguyên An làm nghiên cứu, khảo luận, rất cần sự tỉnh táo chừng mực. Nhưng tỉnh quá thì dễ thành khô khan. Đời sống mà. Đôi khi phiêu một chút, đi chệch một chút lại làm nên thành tựu lớn.
Nếu lý luận như thế, Nguyên An sẽ cười thật vui mà cũng thật hiền, rồi thốt lên câu đùa dí dỏm. Ông không phản đối lối sống phóng khoáng tự do, nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo. Song ông vẫn chuẩn chỉ phong thái của mình, đều đặn “sáng cắp ô đi tối cắp về”, chăm lo thu vén cho gia đình để được yên tâm ngồi vào bàn viết.
Có được sự tỉnh táo ấy, sự phân thân ấy, một phần bởi tính cách trời sinh, một phần do môi trường gia đình, đặc biệt là cách giáo dục nghiêm khắc của người cha thành đạt đôn hậu. Tư duy lý tính hẳn đã hình thành trong ông từ khi còn nhỏ. Buổi đầu lập thân ông lại theo nghề sư phạm – cái nghề luôn đòi hỏi phẩm chất nhẫn nại và trách nhiệm của người thầy. Những năm tháng làm quản lý đơn vị xuất bản hay báo chí cũng rèn thêm cho ông sự điềm đạm. Con đường công danh sự nghiệp nhìn chung thuận lợi, tiến lui đúng nhịp. Cả quãng thời gian đảm nhiệm nhiều công việc ở Bảo tàng Hội nhà văn Việt Nam thì ông vẫn cứ duy trì phong thái, trách nhiệm mà không ồn ào, hiệu quả mà không làm mếch lòng ai. Cách ông nhìn về văn chương, về giới sáng tác cũng luôn chừng mực và sâu sắc. Theo ông, nhà thơ phải hồn nhiên, vì hồn nhiên mới làm được thơ. Nhưng muốn có những thi tứ cô đúc, thì nhà thơ phải là trí thức thực sự.
|
Hàng chục đầu sách đã xuất bản của Nguyên An nằm trong vùng không gian của tiểu luận – phê bình và khảo cứu, với đối tượng trung tâm là tác giả và tác phẩm, chủ yếu gắn với giai đoạn văn học hiện đại.
Ngay từ tên sách và dấu mốc xuất bản, có thể nhận thấy sự thống nhất về đối tượng nghiên cứu, đối tượng tiếp nhận. Từ “Trên đường dạy - học Văn và Tiếng Việt” (1987), “Tuổi xuân những trang thơ những cuộc đời” (1990) đến loạt sách “Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài”, “Nhà văn của các em” xuất bản thập niên 90 thế kỉ trước... tới những cuốn gần đây như “Nghiên cứu Truyện Kiều – Ghi chú và Ấn tượng” (2021), “Văn học thiếu nhi Việt Nam – Khảo luận và Chân dung” (2023), Nguyên An luôn hướng sự chú ý tới việc dạy văn và học văn trong nhà trường.
Dễ hiểu thôi, vì môi trường học đường là nơi ông bắt đầu khởi nghiệp, gặt hái được thành công, cũng là nơi ông ra đi, khao khát mở rộng không gian trải nghiệm. Đi rồi thì lại nhớ, lại thương, lại mong được trở về, được cống hiến. Quy luật phát triển và quy luật tâm lý con người bao đời nay vẫn vậy. Điều này còn thể hiện cả khi ông tham gia thực hiện Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ từ buổi ban đầu cho đến khi tạp chí đã tạo được bản sắc, chỗ đứng. Xuất phát điểm là một giáo viên đứng lớp, ông luôn mong muốn các thầy cô và các em học sinh có thêm tài liệu học tập giảng dạy phù hợp, bổ sung cho ngữ liệu sách giáo khoa. Và tất nhiên, phải là những tài liệu giàu hàm lượng thông tin về tác giả tác phẩm, được chuyển tải với văn phong gần gũi, dễ hiểu, tươi tắn. Các chuyên luận, khảo cứu của ông đều đi theo hướng này, nhận được những phản hồi tích cực từ phía giáo viên và học sinh ở nhiều tỉnh thành. Viết sách cũng là cách Nguyên An bày tỏ những góc nhìn về đời sống, về giáo dục hiện nay.
Mảng chân dung văn học là phần Nguyên An dồn nhiều tâm sức, cả ở góc độ lý luận cũng như thực hành. Trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NXB Hội nhà văn, 1997), ông bày tỏ: “Nhà văn là Người như mỗi chúng ta. Song họ giàu xúc động hơn và trí lự hơn thì phải. Trong một nhà văn chân chính có một nhà chính trị hiền minh, có một nhân dân thuần hậu, mẫn cảm… Họ cũng là con đẻ của dân tộc và thời đại xét từ mọi phương diện khí cốt, tâm thế, tầm vóc văn hóa và cả ngôn phong”. Mong muốn tìm hiểu đời sống thực, đời sống bên trong của nhà văn, đặc biệt là các nhà văn lớn đã thôi thúc Nguyên An từ khi còn là giáo viên dạy chuyên văn ở Thái Bình. Khi lên Hà Nội học tập công tác, ông lại được mở rộng các mối quan hệ, có thêm cơ hội diện kiến, tiếp xúc, trao đổi. Ông luôn giữ nét cư xử của một nhà giáo, chừng mực lễ phép với thế hệ tiền bối; với các nhà văn nhiều tuổi hơn một chút hoặc ngang tuổi, ông có phần thoải mái trong cách xưng hô, trong cách khai thác chi tiết đời thường, nhưng vẫn một lòng trân trọng tài năng.
Có lẽ, trong số các nhà phê bình văn học hiện nay, Nguyên An là người đầu tiên tìm hiểu, khảo cứu và hệ thống về từng bước đi, sự hình thành thể loại chân dung văn học ở nước ta. Ông đặt thể loại này trong bối cảnh lịch sử và văn hóa văn học, gắn với sự đổi thay phát triển của đời sống xã hội và con người cá nhân. Ông xếp chân dung văn học là dạng đặc biệt của phê bình văn học, lại cũng là thể văn thuộc bút ký sáng tác. Thế nghĩa là chân dung văn học đi bằng hai chân: hiện thực và hư cấu. Hiện thực là chủ đạo, là xuyên suốt. Hư cấu phát triển trên nền hiện thực, làm sáng rõ hơn bản chất hiện thực. Và để xây dựng được những chân dung độc đáo ấn tượng, vừa bám vững vào hiện thực lại thăng hoa trong sáng tạo thì phải là cây bút tài khéo, từng trải, lịch lãm.
Các chân dung văn học của Nguyên An thường sử dụng thủ pháp như trong hội họa hay điện ảnh, với các khung hình rộng và hẹp, cận và xa, đậm và mờ. Ông chú trọng nắm bắt thần thái nhân vật, ứng xử với cá tính nhân vật bằng con mắt nhân hậu của kẻ hiểu biết và từng trải. “Tìm kiếm để mà hiểu thì chả biết mấy là vừa. Nhưng khi ứng xử thì không chỉ bằng sự thấu hiểu, mà trước hết, bằng cái tâm sáng trong, bằng cái tư thế khiêm dung và đàng hoàng. Tôi vẫn tự dặn mình như thế giữa cuộc đời thường và trong lúc dựng chân dung văn học là công việc mà tôi say mê” (Nguyên An - Nhà văn Việt Nam hiện đại - NXB Hội nhà văn, 1997).
Hàng trăm chân dung các nhà văn nhà thơ thuộc thế hệ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thế hệ chống Pháp chống Mỹ và các chân dung đương đại đi vào trang viết của Nguyên An, với góc nhìn, sự dặn lòng như thế.
Ông đã ở trong vườn văn rộng lớn và cảm nhận, tôn trọng mọi hương sắc của khu vườn. Ông cũng trồng cho mình một mảnh vườn riêng, sớm chiều chăm chút. Sắc hương của mảnh vườn ấy luôn từ tốn, kín đáo và trầm sâu.