(VOV5) - Trong khi mô hình Nhà hát cách ly hay Dàn giao hưởng tại nhà có phần mới mẻ, thì trong lĩnh vực bảo tàng, quá trình số hóa diễn ra mạnh mẽ hơn.
Là xu hướng chung trên toàn cầu, và ít nhiều đã có những thành tựu ở nhiều quốc gia trên thế giới, số hóa không chỉ là câu chuyện của riêng lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên, trong một địa hạt mà tương tác trực tiếp vẫn có tầm quan trọng nhất định, bài toán số hóa sẽ được giải đáp như thế nào?
Nghe âm thanh bài viết tại đây:
Trong thời đại 4.0, khi trí tuệ nhân tạo đã lấn sân sang lĩnh vực sáng tạo văn chương, thì số hóa đã trở thành nhu cầu tất yếu trong nhiều lĩnh vực. Văn hóa nghệ thuật cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, trong khi mô hình Nhà hát cách ly hay Dàn giao hưởng tại nhà có phần mới mẻ, thì trong lĩnh vực bảo tàng, quá trình số hóa diễn ra mạnh mẽ hơn. Hình thức số hóa cũng rất đa dạng, trước hết là từ việc bổ sung thông tin, giúp người xem dễ dàng tra cứu và thưởng thức tác phẩm.
Triển lãm số “Lặng yên rực rỡ” về tác phẩm của hai danh họa Claude Monet và Pierre Bonnard tại VCCA (Hà Nội) thu hút nhiều khán giả thuộc mọi lứa tuổi - Ảnh: VOV |
TS. Đào Lê Na, Trưởng bộ môn Sáng tác và Phê bình Sân khấu – Điện ảnh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Thực tế mà nói mình may mắn được tham gia tham quan rất nhiều bảo tàng về nghệ thuật lớn ở trên thế giới. Ở New York, ở Washington DC, hay là Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam hay là Bảo tàng Louver ở Pháp, một số bảo tàng ở Nhật Bản, Đài Loan. Họ cũng có ứng dụng kĩ thuật số trong việc cho mình thêm thông tin về các tác phẩm.
Ví dụ như trong Bảo tàng Van Gogh, họ biến không gian triển lãm thành không gian mà Van Gogh đã từng đến để vẽ tranh. Và đặc biệt người ta cũng tái kiến tạo màu sắc của những bức tranh như là “Hoa hướng dương”. Sự nổi bật của bức tranh này chính là một màu vàng rất đặc biệt.
Tuy nhiên, bây giờ qua thời gian thì màu vàng đã không còn sáng như lúc đầu. Để người xem có cảm nhận về màu vàng như là thời kì Van Gogh mới vẽ thì bảo tàng đã dùng kĩ thuật số để cho người xem xem lại một số hình ảnh về bức “Hoa hướng dương” của Van Gogh ngày xưa. Hoặc là mình cũng được xem cận cảnh đường nét của Van Gogh trong cái cách mà họa sĩ đã dùng nét cọ nó dữ dội, nó mạnh mẽ như thế nào. Hoặc một bảo tàng mình xem ở Nhật thì họ cho rất nhiều bộ sưu tập. Người xem có thể chọn vào một hình ảnh nào đó thì những thông tin về các tác phẩm đó sẽ hiện ra rất nhanh chóng dễ dàng.”
Ở một quốc gia gần gũi hơn với chúng ta là Hàn Quốc, quá trình số hóa văn hóa nghệ thuật cũng diễn ra nhanh chóng. Theo TS. Nghiêm Thị Thu Hương, nguyên Trưởng khoa tiếng Hàn, Đại học Hà Nội, việc số hóa đã khiến trải nghiệm tham quan bảo tàng ở xứ sở kim chi trở nên ấn tượng, thậm chí rất dễ… gây nghiện: “Tôi nghĩ về mặt âm thanh ấy, họ xử lí rất triệt để cơ hội gọi là cá nhân hóa trong việc trải nghiệm. Ví dụ như bạn đến bảo tàng, bạn có thể sẽ được cấp ngay một tai nghe và một điều khiển. Đối với mỗi tác phẩm trưng bày trong đấy, họ sẽ đánh số. Bạn chỉ cần đi vào không gian của tác phẩm đấy thôi thì tai nghe tự động bắt sóng, tự động phát hướng dẫn liên quan bằng kênh ngôn ngữ mà bạn chọn. Nếu mà chỉ bằng một cái biểu dán cạnh sản phẩm trưng bày đấy thì có thể chỉ là thông điệp về tác giả hay là thông điệp về niên đại nhưng vì họ đã số hóa thuyết minh đấy rồi cho nên thông tin được cung cấp rất là đầy đủ.
Về mặt hình ảnh, nếu như một tác phẩm bình thường các bạn nhìn thấy, bạn có thể chỉ nhìn thấy nó ở một góc độ hoặc cùng lắm là ở ba cạnh thôi, nếu như mà sản phẩm đấy không được đặt ở vị trí trung tâm của phòng trưng bày. Ở Hàn Quốc thì cùng một sản phẩm đấy, họ vẫn đang để ở một cái tủ kính và bạn thực sự chỉ có thể nhìn được ở một, hai góc thôi. Nhưng bên cạnh đấy lại có một cái clip mà bạn có thể nhìn thấy nó ở tất cả các khía cạnh, dưới nhiều mức độ ánh sáng khác nhau. Tức là một sản phẩm trưng bày ở đấy không chỉ mộ sản phẩm duy nhất như thế, mà các phim, hình hoặc âm thanh đi cùng với nó, đã có link để bạn bấm vào.”
Một phòng trưng bày số hóa ở Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc - Ảnh: icom-aspac.mini.icom.museum |
Không chỉ dừng lại ở việc số hóa thông tin về tác phẩm, vào năm ngoái, Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc đã tạo ra các phòng trưng bày bằng công nghệ 3D. Du khách có thể ngắm nhìn lễ rước kiệu của vua Jeongjo tại pháo đài Hwaseang, hoặc tham quan mô hình ngôi chùa mười tầng Gyeongcheon. Các bức bích họa thời Goguryeo cũng được chuyển sang định dạng 3D, khiến các nhân vật trong tranh có thể chuyển động được. Thậm chí, bằng một cú chạm, du khách có thể tham gia một số trò chơi tương tác.
Giám tuyển Chang Eun-jeong cho rằng việc tích hợp công nghệ giúp mở rộng trải nghiệm của người xem: “Những ngôi mộ thời Goguryeo đều là di sản văn hóa của Hàn Quốc, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Chúng ta không thể tới đó tham quan và kể cả khi được cho phép làm như vậy, du khách cũng không thể vào trong. Chúng tôi đã phục dựng chúng bằng công nghệ 3D, biến các di sản này thành một trải nghiệm kĩ thuật số hết sức sống động.”
Mô hình số hóa của chùa Gyeongcheon - Hàn Quốc - Ảnh: icom-aspac.mini.icom.museum |
Việc ứng dụng công nghệ 3D ở các bảo tàng quả thực đã làm phong phú trải nghiệm của du khách. Theo cách thức truyền thống, khách tham quan chủ yếu phải dựa vào trí tưởng tượng của bản thân vì không được chạm vào hoặc dùng thử các hiện vật trưng bày. Trong khi đó, với trải nghiệm 3D, các hiện vật, sự kiện lịch sử có thể “sống dậy” trong môi trường số hóa.
Nhà báo Eva-Maria Verfürth trong bài Coding da Vinci – Số hóa văn hóa đã nhắc tới Hackathon – Coding da Vinci – hoạt động phát triển phần mềm cho văn hóa ở Đức. Trong vòng sáu tuần lễ, các cơ quan, tổ chức văn hóa và chuyên gia kĩ thuật từ những lĩnh vực văn hóa khác nhau đã tập trung lại, nhằm tìm kiếm ý tưởng mới để văn hóa có thể lan tỏa trong thời đại số. Dự án đã có những kết quả đáng nể như ứng dụng phục dựng Bức tường Berlin khiến bất kì ai đi dạo trong thành phố này cũng có thể nhìn thấy trên màn hình vị trí trước kia của bức tường. Hoặc trải nghiệm trang phục của các thế kỉ trước thông qua công nghệ thực tế ảo VR…
Chính những làn sóng đổi thay mạnh mẽ từ thế giới đã khiến những nhà quản lí văn hóa ở nước ta không thể ngồi yên. PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, cho rằng số hóa văn hóa nghệ thuật vừa là thách thức vừa là cơ hội trong bối cảnh hiện tại: “Chúng ta đang sống trong bối cảnh của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mà chúng ta hay nói đến câu chuyện đây là một xã hội số. Chính vì lí do đó, nên những câu chuyện về số hóa, những câu chuyện về Big Data (dữ liệu lớn) là những câu chuyện rất quan trọng trong xã hội nói chung của chúng ta, trong đó có lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Chúng ta biết được rằng nếu số hóa được những dữ liệu liên quan đến văn hóa nghệ thuật thì chúng ta có thể sử dụng các dữ liệu này cho nhiều mục đích khác nhau để các dữ liệu này biến thành tài sản của dân tộc: có thể chuyển tải thành những tài sản về kinh tế, có thể biến thành những tư liệu cho giáo dục, giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn, kĩ hơn về văn hóa nghệ thuật của dân tộc, đồng thời truyền đi những thông điệp rất là tích cực theo một cách mới, dễ đến với quần chúng nhân dân hơn.”
Số hóa để mở, số hóa để đa dạng trải nghiệm cho khán thính giả… Chắc chắn, những ích lợi của số hóa là không thể nghi ngờ trong bất kì một lĩnh vực nào. Cánh cửa mở ra thế giới khi bàn về vấn đề này có thể sẽ khiến nhiều người trầm trồ ngưỡng mộ, nhưng cũng sẽ để lại nhiều băn khoăn cho những người trong cuộc khi nền tảng công nghệ ở nước ta còn chưa đạt như mức kì vọng. Việc số hóa văn hóa nghệ thuật ở nước ta đang diễn ra với mức độ ra sao? Chúng ta sẽ cùng tìm câu trả lời trong các phóng sự kì sau!